Pháp gia được chính phủ Trung Quốc áp dụng? Lợi và hại

Pháp gia (Legalism) là một trường phái tư tưởng chính trị của Trung Quốc cổ đại, ra đời vào thời kỳ Chiến Quốc (475 TCN - 221 TCN).

Một số đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa Pháp gia:

  • Chủ trương tập trung quyền lực về tay quân vương, xây dựng nhà nước pháp quyền chuyên chế.
  • Sử dụng pháp luật và hình phạt nghiêm khắc để cai trị và kiểm soát xã hội.
  • Chú trọng xây dựng hệ thống pháp luật, chế độ hành chính chặt chẽ.
  • Không coi trọng đạo đức, nhân nghĩa mà dựa vào sức mạnh của pháp luật.
  • Bộ máy quan liêu cai trị xã hội dựa trên pháp luật, chứ không phải đạo đức.
  • Sử dụng phương pháp quản lý kinh tế và xã hội bằng luật pháp chứ không dựa vào đạo đức truyền thống.

Pháp gia là một trường phái chính trị coi trọng sức mạnh của pháp luật, chế độ pháp quyền để cai trị đất nước.

Một số nhân vật tiêu biểu của chủ nghĩa Pháp gia trong lịch sử Trung Quốc cổ đại:

  • Lý Tư (280 TCN-208 TCN): Nổi tiếng với quan điểm “dĩ pháp trị quốc, dĩ kỷ trị dân” (dùng pháp luật để trị quốc, dùng kỷ luật để trị dân). Ông chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền chuyên chế.
  • Thương Ưởng (390 TCN–338 TCN): Đề xướng chế độ tiền thưởng và hình phạt nghiêm khắc, coi trọng vai trò của luật pháp hơn đạo đức truyền thống.
  • Hàn Phi Tử (280 TCN-233 TCN): Người hoàn thiện học thuyết Pháp gia. Chủ trương sử dụng pháp luật và chính sách kinh tế để cai trị.
pháp gia

Nguồn gốc triết học của ĐCS Trung Quốc

Tư tưởng triết học của chính quyền Trung Quốc hiện nay là chủ nghĩa Mác – Lênin, được truyền từ Liên Xô vào Trung Quốc, đã trải qua một quá trình bản địa hóa bài bản, được chủ tịch Mao Trạch Đông biến đổi thành một phiên bản mới dành riêng cho khu vực Trung Quốc, đó chính là quá trình bản địa hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Ở các quốc gia Đông Âu, Liên Xô, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ dựa vào bạo lực để thi hành hình thái ý thức ấy. Nếu không có bản địa hóa thì không cách nào trở thành văn hóa của quốc gia đó, chỉ dựa vào bạo lực thì không thể duy trì lâu dài. Đó là lý do mà Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu đã rất nhanh bị giải thể. Dù là chính đảng của Liên Xô hay các nước Đông Âu trong văn hóa bản địa họ đều chê cười những thứ của ĐCS, nhưng khi những thứ này truyền vào Trung Quốc nó lại kết hợp rất hoàn hảo với văn hóa Trung Quốc. Nó kết hợp với Pháp gia tạo ra một văn hóa hoàn toàn mới. Đó là văn hóa Đảng. Do đó Mao Trạch Đông mới nói, ông ta là sự kết hợp giữa Các Mác và Tần Thủy Hoàng. Những thứ của Mao Trạch Đông rất giống với Pháp gia, luôn tuyền truyền những thứ như ác pháp, âm mưu.

Pháp luật mà chính quyền Trung Quốc và Pháp gia chế định đều là ác pháp

Thương Ưởng khi tiến hành cải cách, ông đã khuyến khích người dân giết người đề được thăng tước. Cộng sản Trung Quốc cũng có một bộ ác pháp cho riêng mình. Vào năm 1999, Giang Trạch Dân phát động cuộc đàn áp người tu luyện Pháp luân công, ông ta đã đưa ra khẩu hiệu rằng: “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính, hủy hoại nhân thể” và còn đưa ra các luật bất thành văn rằng: “đánh học viên Pháp luân công đến chết thì không tính là tội, nếu một học viên bị đánh chết thì sẽ bị tính là tự sát”.

Một điểm nữa, phát luật chỉ trừng phạt hành vi con người, chứ không trừng phạt tư tưởng. Nhưng trong pháp luật của chính quyền Trung Quốc, nó trừng phạt cả tư tưởng con người. Nó cho rằng, nếu bạn phản Đảng, bất mãn với chủ nghĩa xã hội hoặc nói xấu lãnh tụ vĩ đại thì đều bị xem là phạm tội.

Vào thời đại Cách mạng văn hóa, người dân không thờ tổ tiên vì họ cho rằng đó là mê tín, nhưng mọi nhà đều phải có bức ảnh của lãnh tụ. Mỗi sáng thức dậy là phải cúi chào bức ảnh, khi đi làm về là phải báo cáo với bức ảnh. Những điều này thực sự là phi lí.

Chính quyền Trung Quốc cấm tự do ngôn luận, không cho tự do tư tưởng

Điều này giống với những gì Hàn Phi từng nói: thứ nhất là cấm tự do tư tưởng, tiếp đến là cấm nói, tiếp nữa là không cho làm.

Vào thời đại Cách mạng văn hóa, người dân chỉ có thể đọc báo đã được nhà nước kiểm duyệt. Nếu dám có thái độ không tốt sẽ bị khép vào tội phản Cách mạng và bị lôi ra đấu tố, bị người người chửi rủa.

Những người có tiền đều bị coi là địa chủ, bị tịch thu tài sản, đuổi về nông thôn, thân phận thấp kém hơn cả dân thường. Những người tri thức muốn góp ý, thì bị coi là phần tử cánh hữu và bị xử lí triệt để, bị đày về nông thôn. Giống hệt cách xử lý bọn dân ương ngạnh mà Thương Ưởng từng làm.

Tiến hành đốt sách, ngu dân

Thương Ưởng cải cách lần thứ hai là đã tiến hành đốt sách, Hàn Phi Tử cũng chủ trưởng đốt sách. Còn chính quyền Trung Quốc khi phá “Tứ cựu” cũng thi hành đốt sách (Tứ cựu là “tư duy cũ”, “văn hóa cũ”, “thói quen”, “phong tục cũ”).

Người dân chỉ cần học những sách của Đảng, đọc những báo của Đảng, dùng mạng xã hội và công cụ tìm kiếm của Đảng, còn những sách khác thì đốt hết.

Chính quyền Trung Quốc thi hành chính sách ngu dân, vì ngu dân thì mới dễ cai trị. Chứ nếu để người dân thông minh, biết phân tích kỹ lưỡng thì lại rất khó để kiểm soát.

Tự tố giác và chịu tội liên đới

Chịu tội liên đới chính là nếu một cá nhân phạm tội thì tất cả những người không báo cáo, đều sẽ phải nhận tội trừng phạt tương tự. Tố giác chính là cổ vũ mọi người báo cáo với chính phủ. Khi đó hàng xóm nghi kị lẫn nhau, họ hàng nghi ngỡ lẫn nhau, người thân trong nhà trong gia đình cũng không tin tưởng nhau. Một bầu không khí u ám bao trùm.

Chính quyền Trung Quốc và Pháp gia đều muốn biến người dân thành người xấu. Trong Thương quân thư, Thương Ưởng viết rằng: dùng thiện lương thì dân thân với dân, dùng gian ác thì dân thân với chế độ. Cho nên Pháp gia muốn biến bách tính thành bần dân, gian dân, ngu dân.

Đánh tráo khái niệm yêu nước

Ở trên có nói, Pháp gia muốn người dân trở thành xấu, mà người càng xấu và dục vọng càng nhiều thì càng bị khống chế dễ dàng. Chính quyền Trung quốc đã triệt để cách làm đó. Pháp gia cho rằng: nhân chi sơ tính bản ác. Bản chất con người là ác, cho nên phải dùng hình pháp nghiêm khắc để cai trị. Pháp gia không giảng đạo lí, họ cho rằng hình phạt càng nặng càng tốt. Hàn Phi Tử từng nói: nhất định dùng bạo lực và áp bức để bóc lột người dân, biến dân thành trâu ngựa để cày kèo. Lý Tư sau này cũng khuyên Hồ Hợi phải dùng khốc lại, dùng hình pháp tàn khốc để trấn áp quần thần.

Để kiểm soát người dân, chính quyền Trung Quốc không thể đưa ra khái niệm tương thân tương ái như thế mà nó chủ trương là hận, là thù. Những bài hát, những bài thơ của chính quyền Trung Quốc đều tập trung vào sự căm thù quân xâm lược. Nhiều bộ phim mà chính quyền Trung Quốc cho phát đều chiếu cái sự thù hận này. Họ thù hận Nhật Bản, thù hận Mỹ để hướng sự chú ý của nhân dân sang nước ngoài, làm người ta quên đi sự đô hộ hà khắc mà họ đang gặp phải.

Trong chiến tranh Biên giới với Việt Nam, chính phủ Trung Quốc lập tức làm những bài hát để kích động thù hận, cổ vũ sĩ khí, bịa ra những lý do để gây chiến. Dưới sự tuyên truyền và tẩy não xuốt vài chục năm của chính phủ Trung Quốc, khái niệm yêu và hận đã bị đánh tráo. Người dân muốn thể hiện lòng yêu nước thì phải thông qua thù hận để biểu đạt. Yêu nước chính là hận Nhật Bản, hận Hoa Kỳ, hận Đài Loan, hận Tây Tạng, hận Tân Cương, hận Phương tây.

Chính quyền Trung Quốc còn đánh tráo khái niệm yêu nước. Khi này yêu nước trở thành yêu Đảng, mà yêu Đảng lại trở thành yêu nước. Lẫn lộn hoàn toàn. Bởi vì yêu nước thật sự là yêu thương người dân, yêu thương những con người lương thiện, chứ đâu phải là yêu quý chính phủ.

Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng tư tưởng của Pháp gia một cách rất triệt để, kết hợp với tư tưởng của Mác - Lênin, dựa vào thù hận để lập quốc, chỉ trong thời gian ngắn Trung Quốc từ một nước bị Phương tây đánh cho không ngóc đầu lên được, mà  đã trở thành đế quốc hùng mạnh về quân sự.

Nội dung bài viết có tham khảo từ video của kênh youtube Ngược Dòng. Bạn đọc có thể xem video tại đây.

Nếu thấy thông tin hữu ích, có thể donate một cốc cafe qua:

VIETCOMBANK
9886733714
LE VAN TUAN

MOMO
0886733714
LE VAN TUAN

trân trọng cảm ơn!

Viết một bình luận