Quản Trọng 管仲 (? – năm 645 trước công nguyên) là chính trị gia nước Tề thời Xuân Thu. Ông họ Quản, tên Di Ngô, thế thì “Trọng” ở Quản Trọng giải thích như thế nào? Trong Cổ nhân danh tự giải hỗ của Cát Thường Hoành, Cát Phát Hàm có ghi:
Danh Di Ngô, Trọng đương thị hàng đệ. ‘Lễ kí – Đàn Cung thượng’: ‘Ấu danh. Quán (20 tuế) tự, ngũ thập dĩ Bá Trọng.’ Kính kì nhân, xưng kì hàng đệ, kì tự toại bất truyền.
(Tên là Di Ngô, Trọng là gọi theo thứ tự anh em của nhà. Sách ‘Lễ kí – Đàn Cung thượng’ có nói: ‘Lúc nhỏ gọi theo danh. Đến lúc làm lễ đội mũ (20 tuổi) gọi theo tên tự, 50 tuổi lấy Bá, Trọng để gọi.’ Kính trọng người, thì gọi người đó theo thứ tự, tên tự dần không truyền lại.)
Câu giải thích này rất hay.
Người xưa tại sao khi 20 tuổi cần phải đặt tên tự, lúc già (50 tuổi trở lên) lại chuyển dùng theo thứ tự Bá 伯, Trọng 仲 để xưng hô? Đối với vấn đề này, Khổng Dĩnh Đạt đời Đường đã giải thích, ông nói rằng: Khi đến 20 tuổi, có thể làm cha, nếu bạn bè vẫn gọi người đó theo “danh”, là không thích hợp, cho nên dùng “tự” để xưng hô; đến 50 tuổi, người già có địa vị tôn quý, xưng tự vốn biểu thị sự cung kính, nhưng phân lượng hiềm không đủ, bèn lấy Bá 伯 Trọng 仲 Thúc 叔, Quý 季 để xưng hô. Từ danh mà đến tự, từ tự đến thứ bậc, cách xưng hô trong một đời mà có 3 lần biến đổi. “Trọng” ở Quản Trọng chính là như thế. Ví dụ tương tự: Lưu Bang 刘邦, cũng gọi là Lưu Quý 刘季. Quý 季 cũng là tôn xưng gọi theo thứ tự.
Bá hay Mạnh là con trưởng
Trọng là con thứ 2
Nếu nhà 3 con thì Mạnh – Trọng – Quý
Nếu 4 con thì Bá – Trọng – Thúc – Quý
5 con thì sau Quý là Ấu
Trên 5 con thì người thứ 6, 7,… không rõ nhưng người cuối cùng vẫn là Ấu.
Khổng Tử tự Trọng Ni (仲尼), chữ Trọng trong Trọng Ni chính để chỉ Khổng Tử là con thứ hai trong nhà, sau anh cả Mạnh Bì.
Những năm 30 của thế kỉ 20, trong Đông Phương tạp chí , quyển 25 số 7, thư pháp gia Sa Mạnh Hải biên soạn có nói đến vấn đề này, đây được xem là tri thức văn hoá Hán tự giới thiệu đến đại chúng.